Được phát triển bởi Tập đoàn Bưu Chính Viễn Thông

ĐỀN HẢ - NƠI THỜ THƯỢNG TƯỚNG QUÂN THÂN CẢNH PHÚC

07/10/2025 456 0

Đền Hả tọa lạc trên núi Kỳ Lân, thuộc làng Kép (còn gọi là làng Hả Hộ) xã Hồng Giang, Lục Ngạn, Bắc Giang (cũ) nay là phường Chũ, tỉnh Bắc Ninh, cách trung tâm của tỉnh là phường Bắc Giang khoảng 45 km. Đền Hả được xây dựng từ thời Lý - Trần, sau cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ II. Đền thờ thượng tướng quân Thân Cảnh Phúc (tức Vũ Thành), người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Tống dưới triều đại nhà Lý vào thế kỷ XI. Theo thời gian và trải qua nhiều cuộc chiến tranh, ngôi đền đã bị xuống cấp dấu vết của kiến trúc cổ xưa chỉ còn lại một số hiện vật như gạch, ngói và mảnh vỡ của gốm. Đến thời nhà Nguyễn đền đã được tu bổ và được nhân dân địa phương bảo vệ, gìn giữ tới ngày nay. Đền Hả được công nhận là di tích lịch sử quốc gia theo Quyết định số 154/QĐ ngày 25/01/1991 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.

Đền Hả được xây dựng trên một khu đồi rộng, nằm ở phía Đông Nam tổ dân phố Kép (làng Hả Hộ cũ), bao quanh bởi cây cối xanh mát, ao hồ. Kiến trúc của đền theo kiểu chữ Tam, gồm ba tòa chính: Đền Hạ, Đền Trung và Đền Thượng, ngoài ba toà chính đền còn có cổng Tam Quan và dãy Nhà Khách. Bên cạnh khuôn viên đền là di tích chùa Hả, cả hai di tích tạo thành một quần thể kiến trúc hòa hợp, gắn kết với thiên nhiên. Từ mặt đường chính là Tam Quan gồm ba cửa, cửa chính giữa được thiết kế uốn vòm cung, có hai tầng mái, các trụ cột có khắc chữ Hán chạy dọc thân cột. Tầng hai Tam Quan được xây thành khối vuông bịt kín, ở giữa trang trí hình chữ Thọ. Hai cửa phụ bên cạnh có kích thước nhỏ hơn, được xây một tầng, với các trụ cột kiểu lồng đèn, trang trí tinh xảo bằng họa tiết rồng, mây, nối từ hai cửa phụ là bức tường ngắn nối tiếp thêm hai trụ biểu ở hai bên, hai trụ biểu này liền với bức tường chạy bao quanh khuôn viên đền.

Đi qua cổng Tam Quan, một con đường dẫn vào bên trong đền. Bên trái cổng là Nhà Khách gồm năm gian, là nơi du khách nghỉ ngơi và chuẩn bị lễ vật trước khi vào làm lễ. Tiến sâu vào bên trong là khoảng sân trước ba tòa, toà đầu tiên là đền Hạ, gồm năm gian, hai chái, ba gian giữa là lối ra vào, còn hai chái ở hai đầu hồi được xây bịt kín tường, giữa bức tường trổ cửa sổ hình chữ Thọ. Đền Hạ có kết cấu với sáu vì kèo và 24 cột lớn nhỏ phân bố không đều giữa các gian. Bên cạnh là đền Trung, hướng nhà quay cùng với đền Hạ, theo dòng chữ Hán được khắc lên thượng lương, đền Trung được tu sửa vào năm 1802. Đền Trung gồm năm gian, tất cả các gian đều là lối ra vào, cửa gỗ kiểu bức bàn. Đền Thượng quay ngang, được nối liền với Đền Trung bằng một ống muống, tạo thành kết cấu tổng thể hình chữ Đinh, gồm ba gian. Các tòa đều có kết trúc đơn giản, kết cấu vững chắc từ các hệ thống cột cái và cột quân lớn làm bằng gỗ. Bên trong các toà đều có các bệ thờ gỗ, nơi đặt ban thờ với các đồ thờ cúng và tượng, ngoài ra đền còn trang trí hệ thống các cửa võng ở mỗi gian, sơn thếp vàng chạm kênh bong các hoạ tiết, phía trên cửa võng là các bức hoành phi, câu đối treo ở cột có nội dung ghi lại công đức của các công chúa và phò mã họ Thân. Mỗi tòa đều có bốn mái lợp ngói mũi hài, với các góc đầu đao uốn cong hình rồng. Đặc biệt, trên mái đền Trung có đặt một bức bình phong, khắc chữ Hán, tạo điểm nhấn độc đáo. Hiện tại đền Hả còn lưu giữ được các bản sắc phong của các Triều đại và câu đối, đại tự xác lập vị thế, công lao to lớn của phò mã nơi biên ải, trong đó có câu đối “Lý triều huân liệt minh sơn nhạc/Lục địa anh linh quán cổ kim (nghĩa là: Người thuở Lý triều ngời sông núi/Anh linh Lục Ngạn đến mãi sau)”.

Đền Hả thờ thượng tướng quân Thân Cảnh Phúc, cùng các vị phò mã và công chúa của triều Lý vốn là thủy tổ của dòng họ Thân Việt Nam, nhằm tôn vinh những bậc tiền nhân đã góp phần vào sự nghiệp bảo vệ đất nước. Theo truyền thuyết, vào đầu thời nhà Lý, có ngài Giáp Thừa Quý tù trưởng Động Giáp ở Lạng Châu, trấn giữ vùng đất phên giậu cực Bắc non sông, có công đánh giặc ngoại xâm, năm 1010 được vua Lý Thái Tổ kén làm Phò mã, vua đã ban cho ông thêm một nét vào chữ Giáp tạo thành chữ Thân, từ đó ông đổi sang họ Thân, tức Thân Thừa Quý. Dòng họ Thân có vinh dự được ba đời vua Lý liên tiếp gả con gái cho, bắt đầu từ Thân Thừa Quý được Lý Thái Tổ gả cho Lĩnh Nam Công Chúa (Lý Thị Bảo Hòa) năm 1010; Thân Thiệu Thái là con của Thân Thừa Quý, năm 1029 lấy Công chúa Bình Dương (Lý Thị Giám) là con gái vua Lý Thái Tông, trở thành Phò mã. Thân Cảnh Phúc, con của Thân Thiệu Thái và Công chúa Bình Dương, năm 1066 lấy Công chúa Thiên Thành (Lý Thị Cảnh) là con gái vua Lý Thánh Tông, trở thành Phò mã.

Thượng tướng quân Thân Cảnh Phúc, là một vị tướng nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, ông có công rất lớn trong việc củng cố, xây dựng Bắc Giang, Lạng Sơn từ một vùng đất "biên viễn", "phên dậu" trở thành một trọng trấn, một pháo đài kiên cố cả về quân sự, kinh tế, văn hóa không chỉ đối với nhà Lý mà cả các triều đại về sau. Theo tư liệu trong cuốn Lạng Sơn – Vùng đất của Chi Lăng Đồng Đăng Kỳ Lừa có chép: “Vào năm 1077, Quách Quỳ được lệnh nhà Tống mang quân sang xâm lược nước ta để trả thù việc Lý Thường Kiệt đánh các châu Khâm, Liêm, Ung (1075). Đại quân Tống thế lực rất lớn, vượt ải Nam Quan, Quang Lang rồi ổ ạt tiến về phía Nam xuống Chi Lăng, rè sang phía Tây, tiến về phía sông Như Nguyệt. Vùng Quang Lang và Ôn Châu đã rơi vào tay quân Tống nhưng chúng vẫn không được yên ổn. Khi bị chặn đánh ở một ngô hẻm này, khi bị đánh úp ở một góc trại kia. Các cuộc tập kích như vậy cứ diễn ra thường xuyên, làm cho quân Tống bị hao hụt. Quân sĩ bàn tán với nhau rằng, hình như có một vị “thần tướng” ở đâu vụt hiện ra đánh chết quân Tống, làm cho thây ngã ngồn ngang, hàng ngũ tán loạn, rồi lại biến đi ngay, không tìm ra tung tích, cũng không sao giáp mặt được vị thần tưởng ấy cả. Từ tương tá nhà Tống đang đóng quân đồn trai ở Quang Lang đến Giáp Khẩu đều tin rằng có thiên thần Động Giáp giáng trần giúp nhà Lý. Tình thần chán nản và bao trùm quân Tống. Thiên thần Động Giáp ấy chẳng ai khác là Thân Cảnh Phúc, phò mà nhà Lý, con rẻ của Lý Thánh Tông, đang giữ chức Châu mục Lạng Châu. Có thể xem ông là anh hùng du kích đầu tiên của Việt Nam, làm vẻ vang cho xứ Lạng.” Sau khi ông mất, triều đình phong là: Đương Cảnh thành hoàng, tri biên đầu thượng tướng quân Vũ Thành tôn thần. Nhân dân từ khắp miền Lạng Sơn và Lục Nam, Lục Ngạn, Chũ đều lập đền thờ.

Lễ hội Đền Hả diễn ra vào ngày 3, ngày 6 đến ngày 8 tháng Giêng hằng năm với những nghi thức tế lễ như lễ dâng thánh, lễ rước thánh, lễ tắm thánh. Ban tổ chức cử ra một ông chủ tế là người cao tuổi, biết chữ nho, biết viết sớ, am hiểu phong tục tập quán… cùng đó họ tổ chức một đội tế có đủ đạo cụ, trang phục văn tế phục vụ các màn tế. Đặc biệt là lễ diễn tích tướng quân Vũ Thành đánh giặc, các đội quân được ăn mặc chỉnh tề, đi đứng theo hiệu lệnh, xe ngựa, khí giới chỉnh tề từ từ vào khu đánh trận (Bãi Dược). Tại đây có đội quân mai phục, chờ hiệu lệnh. Khi có gió đông bắc nổi lên, hiệu lệnh phát ra, cả đoàn quân reo hò vào trận. Sau đó, làm lễ tế cờ thắng trận rồi thu quân về đền. Thông qua lễ hội, người dân được khơi dậy được niềm tự hào về quá khứ dân tộc trong lịch sử giữ nước, và hình ảnh tướng công Thân Cảnh Phúc trong nền lịch sử Việt Nam./.

Hồng Bưởi

 

Những bài viết liên quan

Lịch trình mẫu